Tìm hiểu Hiến Pháp 2013
Tìm hiểu Hiến Pháp 2013
Bình luận về Hiến pháp sửa đổi năm 2013: “Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Hiến pháp dân chủ, pháp quyền và phát triển”
Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII
đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (sửa đổi). Đây là một sự kiện
chính trị - pháp lý quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của hoạt động lập
hiến phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới,
tiếp tục hoàn thiện đổi mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước.
Hiến pháp năm 1992 được ban hành
trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra và để thể chế hóa Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Hiến
pháp năm 1992 đã tạo cơ sở chính trị – pháp lý quan trọng cho việc thực hiện
công cuộc đổi mới. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay
đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức
tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền
vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa (XHCN) dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này đặt
ra yêu cầu nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp, đạo luật cơ bản của Nhà nước, phù hợp
với tình hình mới, tạo cơ sở hiến định cho việc tiếp tục đổi mới và phát triển
đất nước. Vì vậy, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII (tháng 8/2011) đã quyết
định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992.
Ngay sau khi được thành lập, Ủy ban dự
thảo sửa đổi Hiến pháp đã tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và
xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội cho ý kiến. Tại kỳ họp thứ 4,
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 38/2012/QH13 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân
về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày
02/01/2013, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố để lấy ý kiến
nhân dân. Hoạt động này đã được các cấp, các ngành triển khai sâu rộng, nghiêm
túc, thu hút được sự tham gia tích cực, tâm huyết của đông đảo các tầng lớp
nhân dân và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, thực sự là đợt sinh hoạt chính trị
- pháp lý dân chủ, sâu rộng trong cả hệ thống chính trị. Đây cũng là lần đầu
tiên Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được in gửi tới từng hộ gia đình để người dân được
tiếp cận, nghiên cứu, biết được những quyền, nghĩa vụ của mình cũng như những vấn
đề khác được quy định trong Hiến pháp. Với sự tham gia tích cực của các
tầng lớp nhân dân, theo báo cáo của các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền, đã có hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý của nhân dân về Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp, với hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm
được tổ chức. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được trình Quốc hội xem xét, cho
ý kiến tại 3 kỳ họp Quốc hội (kỳ 4, kỳ 5 và kỳ 6), 3 lần trình Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương khóa XI (Hội nghị Trung ương 5, Hội nghị Trung ương 7 và Hội
nghị Trung ương 8) và rất nhiều lần xin ý kiến của Bộ Chính trị và các cơ quan,
tổ chức, cá nhân hữu quan. Trên cơ sở ý kiến của nhân dân, ý kiến của các vị đại
biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến
pháp đã nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6.
Ngày 28/11/2013, trong không khí
trang nghiêm, đầy xúc động, với đa số phiếu tuyệt đối (486/488 đại biểu Quốc hội
tán thành, chiếm 97,59% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội khóa XIII đã thông
qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị – pháp lý đặc
biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6 đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc,
chắt lọc, tiếp thu được nhiều ý kiến xác đáng của nhân dân, của các vị đại biểu
Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Có thể nói, Hiến pháp đã kết tinh được tinh hoa trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của
tuyệt đại đa số nhân dân, thể hiện được ý Đảng, lòng dân và sự đồng thuận của cả
hệ thống chính trị.
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
được Quốc hội thông qua năm 2013 thực sự là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn
diện, đồng bộ về kinh tế và chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ, phát
triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. So với Hiến pháp năm
1992, Hiến pháp có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến (ví dụ về
bố cục: Hiến pháp chỉ còn 11 chương, 120 điều – giảm 1 chương và 27 điều so với
Hiến pháp năm 1992; có 12 điều mới[1],
giữ nguyên 7 điều[2] và sửa
đổi, bổ sung 101 điều; Lời nói đầu Hiến pháp năm 1992 gồm 6 khổ với 536 từ được
viết ngắn gọn, súc tích chỉ còn 3 khổ với 290 từ,…). Đồng thời, Hiến pháp cũng
đã thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ
ta trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; quy định rõ ràng, đúng đắn
và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ
và môi trường, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo vệ Tổ
quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp; cụ
thể:
Thứ nhất, Hiến
pháp đã đề cao quyền làm chủ của người dân, thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ của
Nhà nước ta, Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
Dân chủ và chủ quyền nhân dân được thể
hiện rõ hơn trong bản Hiến pháp thông qua việc ghi nhận chủ quyền nhân dân ngay
từ Lời nói đầu với quy định: “…Nhân dân
Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Các quy định trong Hiến pháp cũng đã thể
hiện rõ đường lối, chủ trương của Đảng ta lấy con người làm trung tâm, đề cao
quyền làm chủ của người dân. Hiến pháp đã kế thừa và phát triển quy định về con
người thuộc các tầng lớp khác nhau, các thế hệ khác nhau, các hoàn cảnh khác
nhau; tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người cùng phát triển.
Kế thừa các quy định của Hiến pháp
năm 1992, Hiến pháp thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ,
pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
(Điều 2). Đồng thời, Hiến pháp quy định rõ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước
là “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”. Theo đó, “kiểm soát quyền lực” là một nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền,
là một vấn đề mới trong tổ chức quyền lực của Nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được
thể hiện trong các Chương V, VI, VII, VIII và IX của Hiến pháp. Đây là cơ sở hiến
định để tiếp tục thể chế hóa trong các quy định của các luật có liên quan.
Bên cạnh đó, Hiến pháp còn quy định cụ
thể hơn các phương thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông
qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6) mà không chỉ thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân như Hiến pháp năm 1992.
Thứ hai, Hiến
pháp tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội, trách nhiệm của Đảng trước Nhân dân.
Hiến pháp tiếp tục khẳng định và làm
rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Cùng với quy định khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, tại Điều 4 của
Hiến pháp đã bổ sung nội dung quan trọng về trách nhiệm củaĐảng Cộng sản Việt
Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân
dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức
của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.
Thứ ba, Hiến
pháp tiếp tục khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn và các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức khác
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Hiến pháp tiếp tục khẳng định và thể
hiện rõ hơn tư tưởng phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi đại đoàn kết
toàn dân tộc là động lực, nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước trong Lời nói đầu và các điều khoản cụ thể của Hiến pháp; giữ quy định
về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Công đoàn trong Hiến pháp năm 1992 nhưng bổ sung,
làm rõ vai trò của Mặt trận, Công đoàn và các tổ chức chính trị – xã hội khác
được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình, cùng các tổ chức thành
viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (Điều 9, Điều 10).
Thứ tư, Hiến
pháp thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân
Chế định về quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân trong Hiến pháp năm 1992 được quy định ở Chương V thì trong Hiến
pháp sửa đổi được chuyển lên Chương II, đồng thời bổ sung quy định về quyền con
người. Đây không đơn thuần là sự thay đổi về kỹ thuật lập hiến mà là một sự
thay đổi lớn về tư duy, nhận thức, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề
này. Điều này cũng đã được minh chứng bằng việc Việt Nam thời gian qua đã có
nhiều nỗ lực trong việc đạt được những thành tựu về nhân quyền, dành được sự
tín nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Hiến pháp quy định nội dung quyền con
người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng,
bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bổ sung một số quyền mới là
kết quả của quá trình đổi mới 25 năm qua ở nước ta, phù hợp với các điều ước quốc
tế về quyền con người mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở đó, sắp
xếp lại các điều theo các nhóm quyền để bảo đảm tính thống nhất giữa quyền con
người và quyền công dân.
Hiến pháp quy định một nguyên tắc rất
cơ bản là “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1 Điều 14). Bên cạnh đó, Hiến pháp
cũng quy định một nguyên tắc khác để bảo đảm quyền con người, quyền công dân
không bị hạn chế một cách tùy tiện: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng
đồng” (khoản 2 Điều 14). Quy định này vừa thể hiện chủ trương tôn trọng, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, vừa thể hiện yêu cầu của Công ước Liên hiệp quốc
về quyền con người.
Thứ năm, Hiến
pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,phát triển
văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường:
Hiến pháp đã thể chế hóa các quan điểm
của Đảng được xác định trong Cương lĩnh về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường; lồng ghép các điều khoản
theo hướng chỉ quy định những vấn đề cơ bản và khái quát hơn. Điều này là sự thể
chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển bền vững, gắn phát triển
kinh tế với văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường.
Cụ thể:
- Về thành phần kinh tế (Điều 51): Để
bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế nước ta, Hiến pháp đã quy định nền kinh
tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhiều thành phần, nhiều
hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận quan trọng của nền kinh
tế, bình đẳng, cạnh tranh, cùng phát triển.
- Về đất đai (Điều 53 và Điều 54): Hiến
pháp khẳng định đất đai là nguồn tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực
quan trọng phát triển đất nước. Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, Hiến pháp khẳng định yêu cầu tôn trọng quyền sử dụng đất của
người dân.
Trong điều kiện phát triển của
nước ta hiện nay, việc phải thu hồi đất để thực hiện các dự án phát
triển kinh tế – xã hội là vẫn cần thiết. Tuy nhiên, để tránh tình trạng thu
hồi đất tràn lan, tùy tiện, Hiến pháp đã quy định việc thu hồi đất để thực
hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội phải gắn trực tiếp với
các mục tiêu vì lợi ích quốc gia, công cộng. Theo đó, khoản 3 Điều 54 của Hiến
pháp quy định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường
hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công
khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.
- Về xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa
học, công nghệ và bảo vệ môi trường: Cơ bản kế thừa những nội dung về từng lĩnh
vực trong Hiến pháp năm 1992, nhưng được thể hiện lại một cách tổng quát, chỉ
nêu những định hướng lớn đã được xác định trong Cương lĩnh; còn những vấn đề cụ
thể sẽ do luật định.
Thứ sáu, Hiến
pháp tiếp tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN
Trên cơ sở giữ nội dung và bố cục của
Chương IV của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc
hơn vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc, sự gắn kết giữa nhiệm vụ đối ngoại với quốc phòng, an ninh trong việc xây
dựng đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Hiến pháp
về cơ bản vẫn kế thừa các quy định của Hiến pháp hiện hành, khẳng định bảo vệ Tổ
quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và là quyền cao quý của công dân. Tuy nhiên, do nội
hàm bảo vệ Tổ quốc rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
đối ngoại, kinh tế, văn hóa, xã hội, vì vậy, Hiến pháp đã quy định khái quát “Bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sự nghiệp của toàn dân” tại Điều 64; còn những vấn
đề về quốc phòng, an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội thì được
quy định tại các điều 65, 66, 67, 68 và trong các nội dung khác của Hiến pháp.
Thứ bảy, Hiến
pháp tiếp tục khẳng định yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Tiếp tục kế thừa bản chất và mô hình
tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp làm rõ hơn
nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định rõ hơn chức năng của
cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; bổ sung 2 thiết chế hiến định độc lập
là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước; cụ thể là:
ü Về Quốc hội (Chương V):
Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội cơ bản giữ như quy định
của Hiến pháp năm 1992; đồng thời, có sửa đổi, bổ sung để phù hợp với chức năng
của cơ quan thực hiện quyền lập pháp và mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cụ thể như sau:
- Quy định rõ, khả thi và phù hợp hơn
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN quyền quyết định
kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước được chuyểnthành quyền quyết
định mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội (khoản 3
Điều 70) để xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ giữa Quốc hội
và Chính phủ;
- Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội
trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối caophù hợp với yêu cầu
đổi mới mô hình Tòa án nhân dân nhằm làm rõ hơn vai trò của Quốc hội trong mối
quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm
phán theo tinh thần cải cách tư pháp (khoản 7 Điều 70);
- Giao thẩm quyền điều chỉnh địa giới
hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ươngcho Ủy ban thường vụ Quốc
hội theo đề nghị của Chính phủ; làm rõ hơn thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc
hội là cơ quan thường trực của Quốc hội (Điều 74);
- Kế thừa các quy định của Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội phê
chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa XHCN
Việt Nam (Điều 74).
ü Về Chủ tịch nước (Chương VI):
Hiến pháp tiếp tục khẳng định, Chủ tịch
nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà XHCN Việt Nam về đối nội
và đối ngoại, thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng
quốc phòng và an ninh. Hiến pháp đã làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng
lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và quy định mối quan hệ giữa Chủ tịch nước
với Quốc hội, Chính phủ, cơ quan tư pháp. Đồng thời, đã làm rõ hơn vai trò thống
lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch nước trong việc quyết định phong, thăng,
giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức TổngTham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị Quân đội nhân dân Việt Nam…; cùng với đó là bổ sung quy định thẩm quyền của
Hội đồng quốc phòng và an ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch quyết định việc lực
lượng vũ trang nước ta tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và
trên thế giới.
ü Về Chính phủ (Chương VII):
Hiến pháp tiếp tục kế thừa quy định của
Hiến pháp năm 1992 về vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ và khẳng định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất,
thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội, làm rõ hơn
trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ.
ü Về Tòa án nhân dân (Chương VIII):
Trên cơ sở tiếp tục kế thừa quy định
của Hiến pháp năm 1992 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các nguyên tắc hoạt
động của Tòa án nhân dân, Hiến pháp bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện
quyền tư pháp; sửa đổi quy định về hệ thống tổ chức Tòa án cho phù hợp với chủ
trương cải cách tư pháp theo hướng không xác định cấp Tòa án cụ thể trong Hiến
pháp mà để luật định.
ü Về Viện kiểm sát nhân dân (Chương
VIII):
Tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp, Hiến pháp làm rõ hơn nguyên tắc hoạt động của Kiểm sát viên khi thực
hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; sửa đổi quy định về hệ thống
tổ chức Viện kiểm sát cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp.
ü Về chính quyền địa phương (Chương
IX):
- Hiến pháp mới tiếp tục kế thừa quy
định của Hiến pháp hiện hành về các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm sự thống nhất,
đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính ở nước ta; đồng thời bổ sung quy định
về đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, đơn vị hành chính tương đương với quận,
huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
- Về tổ chức chính quyền địa phương,
Hiến pháp quy định khái quát theo hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở
các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.Cấp chính quyền địa
phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc
điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định”,
việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị hành
chính sẽ do luật định.
ü Về Hội đồng bầu cử quốc gia (Chương
X):
Nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ
quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ
của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức
dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử…”. Hiến pháp mới đã quy
định tổng quát về Hội đồng bầu cử quốc gia, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức
và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định.
ü Về Kiểm toán Nhà nước (Chương X):
Hiến pháp mới cũng quy định một thiết
chế hiến định độc lập là Kiểm toán Nhà nước phù hợp với thực tiễn hoạt động của
Kiểm toán Nhà nước và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ tám, Hiến
pháp tiếp tục khẳng định vai trò của đối ngoại và chủ động hợp tác quốc tế
Hiến pháp có những sửa đổi, bổ sung về
chính sách đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới; khẳng định nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hiệp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng
hòa XHCN Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới (Điều
12).
Thứ chín, về kỹ
thuật lập hiến:
Để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản
của Nhà nước, có tính ổn định lâu dài, Hiến pháp chỉ quy định những vấn đề
có tính nguyên tắc cần thể hiện khái quát, cô đọng, súc tích. Theo đó,
những vấn đề về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan nhà nước được quy định rõ trong Hiến pháp, còn quy trình, thủ tục,
cách thức tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ cần để luật điều chỉnh.
Một số chủ trương, chính sách cụ thể về phát triển ngành, lĩnh vực (kinh
tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế, thể dục, thể thao)
không quy định trong Hiến pháp mà để luật điều chỉnh để bảo đảm tính linh hoạt
trong bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, chính sách và trong quản lý, điều hành.
Thứ mười, về
hiệu lực của Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp
Hiến pháp đã khẳng định giá trị pháp
lý cao nhất của đạo luật cơ bản của Nhà nước, quy trình sửa đổi Hiến pháp,
trách nhiệm của Quốc hội và các cơ quan nhà nước cũng như toàn dân trong việc bảo
vệ Hiến pháp.
Để có căn cứ pháp lý cho việc triển
khai thi hành Hiến pháp mới, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết quy định một số điểm
thi hành Hiến pháp, trong đó quy định rõ thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày,
kể từ ngày thông qua; thời điểm Hiến pháp mới có hiệu lực là từ ngày
01/01/2014, đồng thời quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan
trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến Hiến
pháp nhằm bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và chấp hành nghiêm trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, những
sửa đổi của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam vừa được Quốc hội khóa XIII
thông qua tại kỳ họp thứ 6 vừa qua sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc tiếp tục
hoàn thiện đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công Nhà nước
pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân./.
GS, TS. Phan Trung Lý - UV. UBTVQH,
Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc Hội.
[2]
Có 7 điều giữ nguyên
Hiến pháp năm 1992 (Điều 1, Điều 23, Điều 49, Điều 86, Điều 87, Điều 91, Điều
97), nhưng nếu xét về nội dung thì có 11 điều của Hiến pháp năm 1992 được giữ
nguyên (vì Điều 13 đã được ghép và giữ nguyên Điều 141, 142, 143 và 144 của Hiến
pháp năm 1992).
0 comments :